Góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, GS Đinh Xuân Thảo Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội đặc biệt nhấn mạnh đến chế định sở hữu đất đai.
Ông tán thành quan điểm quy định về sở hữu đất đai tại Điều 58 và Điều 59 của Dự thảo, trong đó khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật.

GS Đinh Xuân Thảo cho rằng, Dự thảo vẫn tiếp tục giữ quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng với tổ chức, cá nhân thì được trao cho quyền sử dụng đất để khai thác những lợi ích của đất đai. Chế định này là phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở Việt Nam. Mặt khác, trong lịch sử quan hệ đất đai ở nước ta, thường có nhiều biến động qua từng thời kỳ, chính sách pháp luật đất đai ở mỗi giai đoạn phát triển cũng có những nét đặc thù riêng. Do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, có những vấn đề về đất đai do lịch sử để lại. Việc thiết lập chế định sở hữu toàn dân về đất đai đã góp phần vào việc giữ ổn định quan hệ đất đai, tránh xáo trộn không cần thiết và duy trì sự ổn định về chính trị, xã hội là tiền đề quan trọng để phát triển đất nước.
Trong vấn đề quản lý đất đai, đi đôi với việc giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của người sử dụng đất, Nhà nước đã công nhận quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất và trao cho người sử dụng đất thực hiện các quyền giao dịch tài sản đối với các quyền sử dụng đất, tiến hành việc cấp giấy chứng nhận, xác nhận bảo hộ quyền hợp pháp cho họ. Dự thảo chỉ quy định ra những trường hợp nào hết sức cần thiết thì Nhà nước mới có thể thu hồi, còn nếu không, giao cho người dân để người ta sử dụng ổn định lâu dài. Sự ổn định lâu dài thể hiện ở thời hạn, trước đây, thời hạn thông thường là 20 năm để sản xuất nông nghiệp, ngày nay phải kéo dài ra 50 năm…
Vấn đề cần lưu ý theo GS Đinh Xuân Thảo là: Quy định giữa Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và dự thảo Luật Đất đai sửa đổi có sự “vênh” nhau về chế định thu hồi đất. Đối với khoản 3, Điều 59 của Dự thảo chỉ quy định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có đền bù theo quy định của pháp luật. Tại Dự thảo về sửa đổi Luật Đất đai quy định ngoài 3 lý do đó, còn thêm 2 lý do nữa là mục đích phát triển lợi ích công cộng và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Điều này cần phải thống nhất, bởi lẽ hai Dự thảo sửa đổi này được thông qua không cùng thời điểm, Luật Đất đai (sửa đổi) dự kiến thông qua vào tháng 5, trong khi đó, Hiến pháp (sửa đổi) đến tháng 11 mới thông qua. Nếu Luật Đất đai có 5 trường hợp được thu hồi đất, sau đó Hiến pháp lại quy định chỉ có 3 trường hợp, như vậy sẽ rất khó xử lý.

Cần có những quy định cụ thể, rõ ràng trong chính sách giao đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất.
GS Đinh Xuân Thảo cho rằng, Dự thảo vẫn tiếp tục giữ quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng với tổ chức, cá nhân thì được trao cho quyền sử dụng đất để khai thác những lợi ích của đất đai. Chế định này là phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở Việt Nam. Mặt khác, trong lịch sử quan hệ đất đai ở nước ta, thường có nhiều biến động qua từng thời kỳ, chính sách pháp luật đất đai ở mỗi giai đoạn phát triển cũng có những nét đặc thù riêng. Do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, có những vấn đề về đất đai do lịch sử để lại. Việc thiết lập chế định sở hữu toàn dân về đất đai đã góp phần vào việc giữ ổn định quan hệ đất đai, tránh xáo trộn không cần thiết và duy trì sự ổn định về chính trị, xã hội là tiền đề quan trọng để phát triển đất nước.
Trong vấn đề quản lý đất đai, đi đôi với việc giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của người sử dụng đất, Nhà nước đã công nhận quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất và trao cho người sử dụng đất thực hiện các quyền giao dịch tài sản đối với các quyền sử dụng đất, tiến hành việc cấp giấy chứng nhận, xác nhận bảo hộ quyền hợp pháp cho họ. Dự thảo chỉ quy định ra những trường hợp nào hết sức cần thiết thì Nhà nước mới có thể thu hồi, còn nếu không, giao cho người dân để người ta sử dụng ổn định lâu dài. Sự ổn định lâu dài thể hiện ở thời hạn, trước đây, thời hạn thông thường là 20 năm để sản xuất nông nghiệp, ngày nay phải kéo dài ra 50 năm…
Vấn đề cần lưu ý theo GS Đinh Xuân Thảo là: Quy định giữa Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và dự thảo Luật Đất đai sửa đổi có sự “vênh” nhau về chế định thu hồi đất. Đối với khoản 3, Điều 59 của Dự thảo chỉ quy định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có đền bù theo quy định của pháp luật. Tại Dự thảo về sửa đổi Luật Đất đai quy định ngoài 3 lý do đó, còn thêm 2 lý do nữa là mục đích phát triển lợi ích công cộng và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Điều này cần phải thống nhất, bởi lẽ hai Dự thảo sửa đổi này được thông qua không cùng thời điểm, Luật Đất đai (sửa đổi) dự kiến thông qua vào tháng 5, trong khi đó, Hiến pháp (sửa đổi) đến tháng 11 mới thông qua. Nếu Luật Đất đai có 5 trường hợp được thu hồi đất, sau đó Hiến pháp lại quy định chỉ có 3 trường hợp, như vậy sẽ rất khó xử lý.
Theo KTĐT